Chim họa mi



Phân loại khoa học Nightingale

Vương quốc
Animalia
Phylum
Chordata
Lớp học
Chim
Đặt hàng
Passeriformes
gia đình
Họ Muscicapidae
Chi
Luscinia
Tên khoa học
Luscinia Magarhynchos

Tình trạng bảo tồn chim sơn ca:

Ít quan tâm nhất

Vị trí Nightingale:

Châu phi
Châu Á
Âu-Á
Châu Âu

Sự kiện về Nightingale

Con mồi chính
Trái cây, Quả hạch, Hạt giống, Côn trùng
Tính năng khác biệt
Kích thước cơ thể nhỏ, không có vạch và mỏ mỏng
Sải cánh
20cm - 22cm (7.9in - 9in)
Môi trường sống
Rừng và bụi rậm
Động vật ăn thịt
Chuột, Mèo, Thằn lằn
Chế độ ăn
Động vật ăn tạp
Cách sống
  • Đơn độc
Đồ ăn yêu thích
Trái cây
Kiểu
Chim
Kích thước ly hợp trung bình
3
phương châm
Được đặt tên hơn 1.000 năm trước!

Đặc điểm vật lý của Nightingale

Màu sắc
  • nâu
  • Vì thế
Loại da
Lông vũ
Tốc độ tối đa
18 dặm / giờ
Tuổi thọ
13 năm
Cân nặng
15g - 22g (0.5oz - 0.7oz)
Chiều dài
14cm - 16.5cm (5.5in - 6.5in)

Chim sơn ca là một loài chim nhỏ được cho là thành viên chính thức của họ chim họa mi. Chim sơn ca thường bị nhầm với chim sơn ca, vì chim sơn ca có cùng kích thước và chim sơn ca cái có ngoại hình rất giống với chim sơn ca.



Chim sơn ca là một loài chim buổi sáng và thường có thể nghe thấy chim sơn ca đang hát bài hát lớn của nó vào lúc bình minh. Ở các khu vực thành thị, chim sơn ca sẽ hót to hơn vào lúc bình minh để bù lại tiếng ồn xung quanh.



Chim sơn ca sinh sản tự nhiên trong các khu rừng châu Âu và châu Á trong những tháng mùa hè và sau đó chim sơn ca di cư đến châu Phi vào mùa đông, đến vùng có khí hậu ấm hơn. Chim sơn ca trở lại phương bắc vào mùa xuân một lần nữa để làm tổ.

Chim sơn ca được cho là đã được đặt tên cách đây hơn 1.000 năm, với thuật ngữ nightingale có nghĩa là nữ ca sĩ hát đêm ở Anglo-Saxon. Chim sơn ca được đặt tên là do chim sơn ca thường hót vào ban đêm cũng như ban ngày. Người ta cho rằng đó là những con chim sơn ca đực (chưa ghép đôi) hót vào ban đêm để cố gắng thu hút bạn tình.



Chim sơn ca là loài chim nhỏ với chiều cao trung bình của chim họa mi trưởng thành khoảng 15cm. Chim sơn ca có bộ lông màu nâu trơn bao phủ khắp cơ thể và được biết là có đuôi màu đỏ.

Chim sơn ca là loài chim ăn tạp và ăn hỗn hợp trái cây, hạt, côn trùng và các loại hạt. Chim sơn ca có nhiều kẻ săn mồi trong môi trường tự nhiên chủ yếu do kích thước nhỏ. Động vật ăn thịt của chim sơn ca bao gồm động vật có vú như chuột, cáo và mèo và các loài bò sát như thằn lằn và rắn lớn. Chim sơn ca cũng bị săn đuổi bởi những con chim săn mồi lớn.



Chim sơn ca sống trong những khu rừng rậm và rừng rậm ở Châu Âu và Châu Á, ngoại trừ những vùng ở cực bắc. Mặc dù có số lượng lớn chim sơn ca có mặt trong môi trường sống tự nhiên của chúng, nhưng chim sơn ca thường có thể là loài chim khó phát hiện. Chim sơn ca có thể dễ dàng nghe thấy do tiếng hót lớn của chúng nhưng chúng thường ẩn mình trong những tán lá rậm rạp khuất tầm nhìn.

Chim sơn ca giao phối vào mùa xuân, và chim sơn ca cái xây tổ hình chén trong một bụi cây rậm rạp sát mặt đất. Tổ của chim sơn ca thường rất ẩn mình với thế giới bên ngoài, và được tạo thành từ cành cây, lá và cỏ. Chim sơn ca cái đẻ từ 2 đến 5 quả trứng mỗi lần đẻ, và chim sơn ca nở ra sau thời gian ấp trứng chỉ vài tuần.

Chim sơn ca di chuyển những khoảng cách rộng lớn hàng năm để di cư giữa miền bắc và miền nam. Tuổi thọ trung bình của chim sơn ca là khoảng 2 năm, mặc dù một số cá thể chim họa mi (đặc biệt là những con chim sơn ca trong điều kiện nuôi nhốt) đã được biết là sống lâu hơn rất nhiều.

Chim sơn ca được đặt tên như vậy vì chúng thường hót vào ban đêm cũng như ban ngày. Cái tên này đã được sử dụng hơn 1.000 năm, rất dễ nhận biết ngay cả ở dạng Anglo-Saxon - ‘nihtingale’. Nó có nghĩa là 'ca sĩ hát đêm'. Các tác giả ban đầu cho rằng nữ hát trong khi thực tế là nam. Bài hát rất lớn, với một loạt các tiếng huýt sáo, réo rắt và réo rắt ấn tượng. Tiếng hót của nó đặc biệt đáng chú ý vào ban đêm vì ít loài chim khác đang hót. Đây là lý do tại sao tên của nó bao gồm 'đêm' trong một số ngôn ngữ.

Chỉ những con đực chưa kết đôi mới hát thường xuyên vào ban đêm và những bài hát về đêm có khả năng thu hút bạn tình. Hát vào lúc bình minh, trong một giờ trước khi mặt trời mọc, được cho là quan trọng trong việc bảo vệ lãnh thổ của chim. Chim sơn ca thậm chí còn hát to hơn trong môi trường đô thị hoặc gần đô thị, để khắc phục tiếng ồn xung quanh. Tính năng đặc trưng nhất của bài hát là tiếng huýt sáo lớn, không có trong bài hát của Thrush Nightingale. Nó có tiếng kêu báo động giống như con ếch.

Xem tất cả 12 động vật bắt đầu bằng N

Nguồn
  1. David Burnie, Động vật Dorling Kindersley (2011), Hướng dẫn trực quan chắc chắn về động vật hoang dã trên thế giới
  2. Tom Jackson, Lorenz Books (2007) Bách khoa toàn thư thế giới về động vật
  3. David Burnie, Kingfisher (2011) The Kingfisher Animal Encyclopedia
  4. Richard Mackay, Nhà xuất bản Đại học California (2009) Tập bản đồ các loài nguy cấp
  5. David Burnie, Dorling Kindersley (2008) Bách khoa toàn thư có minh họa về động vật
  6. Dorling Kindersley (2006) Từ điển bách khoa toàn thư về động vật của Dorling Kindersley
  7. Christopher Perrins, Nhà xuất bản Đại học Oxford (2009) The Encyclopedia Of Birds

Bài ViếT Thú Vị