Newt
Phân loại khoa học Newt
- Vương quốc
- Animalia
- Phylum
- Chordata
- Đặt hàng
- Caudata
- gia đình
- Họ Salamandridae
- Chi
- Pleurodelinae
- Tên khoa học
- Lissotriton Vulgaris
Tình trạng Bảo tồn Newt:
Ít quan tâm nhấtVị trí Newt:
Châu ÁÂu-Á
Châu Âu
Bắc Mỹ
Sự kiện Newt
- Con mồi chính
- Giun, Côn trùng, Ốc sên nước
- Môi trường sống
- Rừng ôn đới và bờ sông
- Động vật ăn thịt
- Chim, Cáo, Bò sát
- Chế độ ăn
- Động vật ăn tạp
- Quy mô lứa đẻ trung bình
- 100
- Cách sống
- Đơn độc
- Đồ ăn yêu thích
- Giun
- Kiểu
- Lưỡng cư
- phương châm
- Có khả năng mọc lại các chi bị mất hoặc bị hư hỏng!
Đặc điểm vật lý của sa giông
- Màu sắc
- nâu
- Màu xám
- Màu vàng
- Mạng lưới
- Đen
- màu xanh lá
- trái cam
- Loại da
- Quy mô
- Tốc độ tối đa
- 30 dặm / giờ
- Tuổi thọ
- 2-15 năm
- Cân nặng
- 10-50g (0,3-1,8 oz)
Sa giông là một loài lưỡng cư nhỏ và sa giông trung bình chỉ có xu hướng dài đến khoảng 15cm, một số sa giông tuy nhiên lớn hơn hoặc nhỏ hơn tùy thuộc vào loài sa giông. Sa giông được tìm thấy tự nhiên ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á và sa giông được cho là một loài phụ của kỳ giông.
Sa giông có xu hướng đẻ trứng riêng lẻ, sa giông thường tìm ao hồ hoặc dòng nước chảy chậm để thực hiện việc này. Các trứng sa giông cá thể bám vào thực vật thủy sinh và nở trong khoảng 3 tuần. Sự khác biệt chính giữa trứng sa giông và trứng ếch hoặc cóc là trứng của sa giông được đẻ riêng lẻ và gắn liền với thực vật. Trứng ếch, cóc nổi lên sát mặt nước và thường thành từng đám lớn, nơi thường có hàng trăm quả trứng với nhau.
Nòng nọc sa giông có một chút giống với cá con, chỉ khác là chúng có lông mang bên ngoài. Sa giông con sẽ mọc chân trong vài tháng đầu tiên, lúc đó sa giông con sẽ có thể khám phá cả nước và đất.
Sa giông nói chung là động vật sống đơn độc nhưng một số loài sa giông được biết là ngủ đông theo nhóm. Sa giông thường đến với nhau trong mùa giao phối có xu hướng diễn ra vào đầu mùa xuân.
Người ta thường nuôi sa giông bụng lửa, sa giông đuôi chèo và sa giông cá sấu làm thú cưng. Sa giông được coi là vật nuôi tốt để nuôi vì sa giông nhỏ và yên tĩnh và một số loài sa giông, như sa giông lớn có nguồn gốc từ châu Âu có thể đạt đến 27 tuổi.
Người ta cho rằng có khoảng 15 loài sa giông khác nhau được tìm thấy trên khắp Bắc bán cầu, và nhiều loài sa giông này có chứa độc tố trong da giúp sa giông tự vệ khỏi những kẻ săn mồi. Một số loài sa giông Thái Bình Dương, được tìm thấy ở Bắc Mỹ đặc biệt độc, với một số loài sa giông này chứa đủ độc tố trong da để giết chết một người trưởng thành.
Sa giông được biết đến nhiều nhất với thân hình thằn lằn, bốn chân và một cái đuôi dài. Sa giông không chỉ có khả năng thở đáng kinh ngạc ở cả dưới nước và trên cạn mà sa giông còn có thể mọc lại các chi nếu các chi ban đầu của sa giông bị hư hỏng. Một giả thuyết giải thích tại sao điều này lại xảy ra là các chất hóa học cho phép sa giông mọc lại các chi, giống như các chất hóa học tạo ra khối u ở các động vật khác. Các tế bào sinh sản và phát triển nhanh này được cho là rất giống nhau ở cả sa giông và các khối u ở các động vật khác.
Do mất môi trường sống và ô nhiễm, các quần thể sa giông trên khắp thế giới đang suy giảm nghiêm trọng. Các hiệu ứng bảo tồn ở cả Anh và Mỹ đã khiến các quần thể sa giông bản địa được phép thử và tăng số lượng một lần nữa.
Xem tất cả 12 động vật bắt đầu bằng NNguồn
- David Burnie, Động vật Dorling Kindersley (2011), Hướng dẫn trực quan chắc chắn về động vật hoang dã trên thế giới
- Tom Jackson, Lorenz Books (2007) Bách khoa toàn thư thế giới về động vật
- David Burnie, Kingfisher (2011) The Kingfisher Animal Encyclopedia
- Richard Mackay, Nhà xuất bản Đại học California (2009) Tập bản đồ các loài nguy cấp
- David Burnie, Dorling Kindersley (2008) Bách khoa toàn thư có minh họa về động vật
- Dorling Kindersley (2006) Từ điển bách khoa toàn thư về động vật của Dorling Kindersley